Chuyên mục Hỏi - Đáp.
Tiếp nhận câu hỏi của ông (bà) Bùi Anh Đương được trích như sau:
“Tôi làm ngày nghỉ, ngày lễ nhưng lương của tôi chỉ bằng lương chính và + thêm 100.000 đồng. Vậy có sai luật lao động không? Hợp đồng của tôi là 8h/ngày nhưng đa phần là trên 12h vậy giờ làm thêm có tính không!? ”
Căn cứ Bộ luật lao động hiện hành; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời như sau:
Thứ nhất, về thông tin tiền lương, ông (bà) Bùi Anh Đương xem xét khoản 3 Điều 95, Bộ luật lao động năm 2019, được trích sau đây:
“Mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương cho người lao động, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).”
Thứ hai, về tiền lương làm thêm giờ, Điều 98, Bộ luật lao động năm 2019, quy định như sau:
“1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm như sau:
a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;
c) Vào ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
2. Người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc của ngày làm việc bình thường.
3. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày của ngày làm việc bình thường hoặc của ngày nghỉ hằng tuần hoặc của ngày nghỉ lễ, tết.”
Thứ ba, làm thêm giờ, Điều 107, Bộ luật lao động năm 2019, quy định như sau:
“1. Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động.
2. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
a) Phải được sự đồng ý của người lao động;
b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 40 giờ trong 01 tháng;
c) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:
a) Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản;
b) Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
c) Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời;
d) Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;
đ) Trường hợp khác do Chính phủ quy định.
4. Khi tổ chức làm thêm giờ theo quy định tại khoản 3 Điều này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.”
Do đó, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị ông (bà) Bùi Anh Đương yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp cho ông (bà) về Nội quy lao động và Thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp ông (bà) đang làm việc để đối chiếu và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp Doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật hiện hành, ông (bà) có thể gửi đơn khiếu nại đến Thủ trưởng doanh nghiệp nơi ông (bà) đang làm việc để xem xét, giải quyết.
Nếu doanh nghiệp ông (bà) đang làm việc cố tình không công khai Nội quy lao động và Thỏa ước lao động tập thể; hoặc doanh nghiệp ông (bà) đang làm việc không tiếp nhận đơn khiếu nại, giải quyết các vấn đề của ông (bà) thì ông (bà) có thể làm đơn khiếu nại lần 2, gửi đến Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội để thụ lý tổ chức thanh - kiểm tra doanh nghiệp đang vi phạm pháp luật về lao động.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời để ông (bà) Bùi Anh Đương được biết./.